HỘI NHẬP TÀI CHÍNH TRONG ASEAN

Mạc Tiến Anh ( tổng hợp)

  1. Vài nét về cộng đồng kinh tế ASEAN

Tại Tầm nhìn ASEAN 2020, được thông qua 12/1997, Các nhà lãnh đạo ASEAN đã định hướng ASEAN sẽ hình thành một Cộng đồng, trong đó sẽ tạo ra một Khu vực Kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hoá, dịch vụ và đầu tư được lưu chuyển thông thoáng, vốn được lưu chuyển thông thoáng hơn, kinh tế phát triển đồng đều, nghèo đói và phân hoá kinh tế-xã hội giảm bớt. Ý tưởng đó được khẳng định lại tại HNCC ASEAN 9 (Bali, In-đô-nê-xia, tháng 10/2003), thể hiện trong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II). Theo đó, ASEAN nhất trí hướng đến mục tiêu hình thành một cộng đồng ASEAN liên kết, tự cường vào năm 2020 với 3 trụ cột chính là hợp tác chính trị – an ninh (Cộng đồng an ninh ASEAN – ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng Kinh tế ASEAN – AEC) và hợp tác văn hoá xã hội (Cộng đồng Văn hoá Xã hội ASEAN – ASCC). Quyết định xây dựng AEC vào năm 2020 trong Tuyên bố Hòa hợp ASEAN (Tuyên bố Bali II) ghi rõ: tạo dựng một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và cạnh tranh cao, nơi có sự di chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, di chuyển tự do hơn của các luồng vốn, phát triển kinh tế đồng đều và giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về kinh tế-xã hội. Để đẩy nhanh các nỗ lực thực hiện mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 tại Cebu, Phi-líp-pin, tháng 1/2007 đã quyết định rút ngắn thời hạn hình thành Cộng đồng, trong đó có AEC, từ 2020 xuống 2015.

Đối với Cộng đồng kinh tế ASEAN, bốn đặc điểm đồng thời là yếu tố cấu thành của AEC, đó là:

– Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông qua tự do lưu chuyển hàng hoá; tự do lưu chuyển dịch vụ; tự do lưu chuyển đầu tư; tự do lưu chuyển vốn và tự do lưu chuyển lao động có kỹ năng.

– Một Khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn khổ chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thuế quan và thương mại điện tử.

 – Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN.

 – Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu (WTO).

Mặc dù vẫn chưa thể hoàn thành, Hội nhập tài chính trong khu vực đóng một vai trò quan trọng cho việc tiếp tục phát triển lĩnh vực tài chính, tạo điều kiện tiếp cận tốt hơn đến lĩnh vực bảo hiểm, thị trường vốn và ngân hàng.

Khả năng tiếp cận với các dịch vụ này được cải thiện, sẽ không chỉ cải thiện hiệu quả phân bổ và tăng trưởng kinh tế, mà còn làm giảm chi phí vốn. Tuy nhiên, ngay cả khi đạt được những tiến triển trong việc hài hòa hóa các tiêu chuẩn trong lĩnh vực này, thì tự do hóa dịch vụ tài chính vẫn phức tạp hơn so với tự do hóa trong các lĩnh vực khác như giảm thuế quan đối với hàng hóa, và do đó đòi hỏi phải có thêm thời gian để thực hiện.

Để hiểu sâu hơn những nỗ lực của ASEAN trong việc hội nhập các dịch vụ tài chính, thì điều quan trọng là phải hiểu được sự phát triển của khu vực trong những năm gần đây cũng như những nỗ lực liên tục và thách thức hiện tại của các chính phủ trong khu vực vào năm 2016.

  1. Tiến trình hội nhập tài chính trong ASEAN

Việc đẩy mạnh hội nhập tài chính trong ASEAN đã diễn ra kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Sau đây là một số cột mốc hội nhập quan trọng nhất thực hiện trong những năm gần đây:

-Năm 2003 – Lộ trình Hội nhập tài chính và tiền tệ trong ASEAN (The Roadmap for Monetary and Financial Integration in ASEAN)

Lộ trình này được đồng thuận bởi các bộ trưởng tài chính của ASEAN, thiết lập lộ trình hội nhập thị trường tài chính, đảm bảo tự do hoá dịch vụ tài chính và phát triển bền vững của thị trường vốn.

-Năm 2007 – Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint)

Các lãnh đạo ASEAN tuyên bố ý định thành lập Cộng đồng Kinh tế (AEC) vào năm 2015 để tạo điều kiện cho các dòng chảy thương mại và đầu tư nhiều hơn trong khu vực. Để thực hiện điều này, các lãnh đạo đã soạn thảo chi tiết kế hoạch tự do hóa thương mại và dịch vụ với quy mô khu vực, bao gồm cả các dịch vụ tài chính, bằng việc kết nối cùng các hệ thống tài chính của các nước thành viên và tự do hóa cơ chế tài khoản vốn.

Mục tiêu cụ thể đề ra trong kế hoạch chi tiết bao gồm:

  • Loại bỏ nhanh chóng những hạn chế trong cung cấp dịch vụ tài chính trong khu vực
  • Hài hòa hóa những tiêu chuẩn về thị trường vốn trong khu vực
  • Tự do hóa tài khoản vốn thông qua việc gỡ bỏ các hạn chế tài khoản
  • Phát triển thị trường vốn, bằng cách xây dựng năng lực và cơ sở hạ tầng cho phát triển thị trường vốn ASEAN
  • Hài hòa hóa hệ thống thanh toán
  • Công nhận lẫn nhau về trình độ chuyên môn của các chuyên gia ngành tài chính

-Năm 2011 – Khung Hội nhập tài chính ASEAN (ASEAN Financial Integration Framework)

Cung cấp một cách tiếp cận chung cho các sáng kiến tự do hóa và hội nhập trong khuôn khổ AEC. Khuôn khổ này nhằm tạo ra một khu vực tài chính bán hội nhập vào năm 2020, trong đó mỗi nước thành viên sẽ được phép xác định mốc thời gian và khung thời gian riêng để đạt được mục tiêu chung cuối cùng của hội nhập tài chính khu vực. Để đạt được mục đích trên, các quốc gia thành viên cần phải đạt được những mục tiêu chính sau đây:

  • Loại bỏ các hạn chế đối với việc cung cấp dịch vụ tài chính nội khối ASEAN của các tổ chức tài chính ASEAN
  • Xây dựng năng lực và cơ sở hạ tầng để phát triển và hội nhập thị trường vốn ASEAN
  • Tự do hóa dòng chảy vốn trong khu vực ASEAN
  • Hài hoà hệ thống thanh toán
  • Thúc đẩy xây dựng năng lực, sắp xếp tài chính khu vực, và giám sát khu vực

-Năm 2013 – Xây dựng Báo cáo “Con đường Hội nhập tài chính ASEAN”

 Một nghiên cứu kết hợp về việc đánh giá tổng quan tài chính và xây dựng cột mốc cho quá trình hội nhập tài chính và tiền tệ trong ASEAN, công bố bởi Thống đốc Ngân hàng Trung ương của các quốc gia thành viên ASEAN, báo cáo có giá trị như một tài liệu tham khảo quan trọng cho ASEAN để hướng dẫn thêm quá trình hội nhập tài chính của mình.

Tiến trình hợp tác tài chính trong ASEAN tập trung vào các hoạt động: Thực hiện Lộ trình hội nhập tài chính – tiền tệ ASEAN vào năm 2020; Thực hiện Cơ chế giám sát kinh tế ASEAN; Xây dựng Kế hoạch tổng thể hướng tới Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào 2015; và các chương trình hợp tác tài chính ASEAN khác.
Lộ trình hội nhập tài chính – tiền tệ ASEAN:

Lộ trình hội nhập tài chính – tiền tệ ASEAN đã được các Nhà Lãnh đạo cấp cao ASEAN thông qua vào tháng 10/2003. Mục tiêu là hướng tới sự hội nhập thị trường tài chính- tiền tệ ASEAN sâu rộng vào năm 2020. Lộ trình tập trung vào 4 lĩnh vực: Phát triển thị trường vốn; Tự do hoá tài khoản vốn; Tự do hoá lĩnh vực dịch vụ tài chính ASEAN và Hợp tác tiền tệ ASEAN.

Cơ chế giám sát ASEAN:

Cơ chế giám sát kinh tế ASEAN (ASR) được thiết lập từ năm 1997 với nội dung (i) Kiểm điểm kinh tế định kỳ 2 lần/năm để đánh giá tình hình kinh tế và tài chính khu vực, đưa ra các khuyến nghị chính sách; (ii) cung cấp hệ thống cảnh báo sớm về các cuộc khủng hoảng tương lai nhằm có các biện pháp ứng phó kịp thời; (iii) trao đổi thông tin về diễn biến và triển vọng kinh tế thế giới. Đây là chương trình hoạt động mang đặc thù riêng của kênh hợp tác tài chính.

Các hợp tác tài chính ASEAN khác:

Hiện nay, các nội dung hợp tác tài chính khác trong ASEAN bao gồm hợp tác về thuế, hợp tác hải quan (cơ chế một cửa, xây dựng danh mục AHTN, hải quan quan điện tử), chương trình xúc tiến đầu tư của các Bộ trưởng Tài chính ASEAN, hợp tác chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, cải cách hệ thống tài chính quốc tế v.v…
Hợp tác tài chính ASEAN + 3 tập trung các hoạt động: (i) Triển khai Sáng kiến phát triển thị trường trái phiếu ASEAN+3 (ABMI); (ii) Triển khai Sáng kiến Chiềng Mai (CMI) và (iii) Thực hiện nghiên cứu trong khuôn khổ Nhóm nghiên cứu ASEAN + 3.

ABMI được khởi xướng vào năm 2003 với mục tiêu: (i) phát triển có hiệu quả và sâu rộng các thị trường trái phiếu trong khu vực; và (ii) tăng cường hợp tác qua biên giới giữa các thị trường.  Trong năm 2007-2008, các nước nhất trí: (i) nghiên cứu các công cụ tài chính mới để huy động vốn cho dự án cơ sở hạ tầng nhằm góp phần giải quyết những khó khăn trong việc huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay trong khu vực; (ii) Tiếp tục nghiên cứu những hoạt động hợp tác khu vực về cơ chế bảo lãnh, đầu tư và các định mức tín nhiệm; và (iii) Tăng cường trao đổi và công bố thông tin về tình hình thị trường trái phiếu của các nước thành viên trên trang web chung về các thị trường trái phiếu ASEAN + 3.

CMI được các Bộ trưởng Tài chính ASEAN + 3 thông qua tháng 05/2000 nhằm tăng cường hợp tác và hỗ trợ trong khu vực để ngăn chặn hoặc/và đối phó với các cuộc khủng hoảng trong tương lai. Với mục tiêu: (i) hỗ trợ những khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán của các nước trong khu vực; và (ii) bổ sung cho các thoả thuận hỗ trợ tài chính hiện hành của các tổ chức tài chính quốc tế, nội dung chính của Sáng kiến gồm:

– Mở rộng quy mô vốn và thành viên tham gia của mạng lưới thoả thuận hoán đổi ASEAN để hỗ trợ tài chính lẫn nhau khi có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán.

– Thiết lập một mạng lưới thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương giữa các  nước ASEAN + 3 nhằm tạo ra cơ chế hỗ trợ tài chính ngắn hạn trong khu vực khi có nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán.

– Tăng cường cơ chế giám sát trong khu vực ASEAN + 3 ở cấp Bộ truởng và Thứ trưởng Tài chính để tăng cường cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin về tình hình kinh tế-tài chính của khu vực, từng nước thành viên và những vấn đề thời sự quan tâm của khu vực để cùng đưa ra những biện pháp/khuyến nghị ở cấp khu vực nhằm ngăn chặn những rủi ro tiềm tàng có thể gây nên khủng hoảng tài chính khu vực.

Tuy nhiên, mạng lưới hoán đổi song phương hiện nay của ASEAN + 3 có những hạn chế nhất định như: cơ chế điều phối ở cấp khu vực rất phức tạp khi ràng buộc  pháp lý giữa các nước lại tồn tại dưới dạng các thoả thuận song phương, mức độ cam kết cho vay vốn thấp và chưa thể hiện một tiếng nói chung của cả khu vực. Do đó, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện mạng lưới hoán đổi song phương, ASEAN+3 đã thực hiện Thỏa thuận Đa phương CMI (CMIM).

  1. Tương lai của quá trình hội nhập

Bảo hiểm

Tại một khu vực đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, bảo hiểm đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp biện pháp bảo vệ chống lại các nguy cơ thiệt hại kinh tế. Trong khi từng nước đã thực hiện một loạt các biện pháp để giảm thiểu những rủi ro, sự thiếu thống nhất đã tạo ra sự không chắc chắn cho các nhà đầu tư tiềm năng.

Trong những nỗ lực để ngăn cản sự thiếu thống nhất đó, các nhà lãnh đạo đã thông qua Khuôn khổ hội nhập bảo hiểm ASEAN (AIIF). Khuôn khổ này được thiết lập nhằm cải thiện việc cung cấp bảo hiểm xuyên biên giới hàng hải, hàng không, và ngành vận tải hàng hóa quốc tế. Được ký kết vào năm 2015, AIIF có hiệu lực trong nửa sau của năm 2016.

Một số lĩnh vực khác cũng cần được tự do hóa là lĩnh vực bảo hiểm thiên tai và tái bảo hiểm. Điều này sẽ khuyến khích các cá nhân và các công ty mua bảo hiểm, giúp họ giảm nhẹ rủi ro trong các hoạt động hằng ngày. Sự thay đổi này sẽ giúp giảm chi phí bảo hiểm rủi ro kinh doanh xuyên biên giới và giúp tăng thương mại nội khối ASEAN.

Thị trường vốn

Phát triển thị trường vốn, thông qua tiếp cận thị trường tốt hơn và thanh khoản thị trường tăng lên, cần tăng cường sự sẵn có trong khi giảm chi phí vốn trong mỗi quốc gia. Để đánh giá sự phát triển thị trường vốn, Demirgue-Kunt và Levine (1999) đã sử dụng ba chỉ số bao gồm cả tài sản ngân hàng thương mại so với GDP, tài sản ngân hàng trung ương so với GDP và vốn hóa thị trường so với GDP, hai chỉ số đưa ra tín dụng ngân hàng trong GDP và tổng giá trị chứng khoán giao dịch với GDP cho hoạt động và hai chỉ số về lợi nhuận ngân hàng và lợi suất ngân hàng để đo lường hiệu suất ngân hàng.

Về kích thước của thị trường vốn, các chỉ số tài sản của ngân hàng thương mại của so với GDP và thị trường vốn hóa so với GDP của Singapore và Malaysia là khá cao và Thailand đứng vị trí thứ ba.

Sàn giao dịch của Sở Giao dịch Chứng khoán một số nước nhưThái Lan, Malaysia, Singpaore và Philippines đã được kết nối. Trên thực tế, giao dịch chứng khoán từ Thái Lan, Malaysia, và Singapore đã hợp tác hiệu quả, các liên kết giao dịch trong ASEAN tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư và hoạt động thương mại dễ dàng hơn nhờ có thị trường vốn ASEAN. Tự do hóa thương mại xuyên biên giới trong ASEAN với giá trị vốn hóa thị trường của hơn 2,2 nghìn tỷ USD. Các cổ phiếu ASEAN niêm yết được dự kiến rằng sẽ thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư quốc tế đầu tư trong khu vực.

ASEAN đã đạt được tiến triển tốt trong hội nhập thị trường vốn. Thái Lan, Malaysia, và Singapore là những nước đầu tiên thực hiện việc hội nhập thị trường vốn, với nhiều biện pháp cụ thể đã được đưa ra nhằm mở rộng liên kết thị trường và hài hòa hóa các yêu cầu về bản cáo bạch thông qua việc công bố Các tiêu chuẩn về bản cáo bạch ASEAN (ASEAN Disclosure Standards).

Đối với các nhà đầu tư, Kết nối thương mại ASEAN (ASEAN Trading Link) giữa Thái Lan, Malaysia, và Singapore đã tạo ra một cổng tiếp cận chung duy nhất đến cả ba sàn giao dịch chứng khoán tại 3 nước này. Từ bây giờ, các nhà đầu tư ở một trong 3 nước trên có thể mua cổ phiếu ở 2 thị trường còn lại thông qua các công ty môi giới chứng khoán tại địa phương. Bằng cách đó, các tổ chức phát hành có thể bán cổ phiếu tại ba thị trường khác nhau mà không cần phải thực hiện ba loại thủ tục khác nhau. Một cải tiến khác là sự ra đời của Khuôn khổ về quỹ đầu tư tín thác ASEAN (ASEAN Collective Investment Scheme Framework), trong đó cho phép các nhà quản lý quỹ – những người được uỷ quyền quản lý một quỹ đầu tư tại một nước, có thể tiến hành cấp quỹ xuyên biên giới.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số thị trường vốn ASEAN khá nhỏ, không phát triển đầy đủ, và chỉ cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ở một phạm vi giới hạn, do đó, các thị trường này thường thiếu tính thanh khoản, dẫn đến việc dễ bị tổn thương trước những cú sốc bên ngoài. Việc tự do hoá sâu rộng các thị trường trong khu vực ASEAN đã cho phép các thị trường nhỏ này trở nên thanh khoản hơn và ổn định hơn.

Ngân hàng

Là một phần của Khuôn khổ hội nhập tài chính ASEAN (ASEAN Financial Integration Framework), thống đốc ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên ASEAN đã đưa ra Khuôn khổ hội nhập ngân hàng ASEAN (ABIF) vào tháng 12 năm 2014. Khuôn khổ này sẽ phân loại những ngân hàng đã đáp ứng được các tiêu chuẩn nhất định là “Ngân hàng ASEAN đủ tiêu chuẩn” và cho phép các ngân hàng này có thể tiếp cận sâu rộng thị trường các nước ASEAN khác.

Để tận dụng được các lợi ích mà “Ngân hàng ASEAN đủ tiêu chuẩn” mang lại, các ngân hàng này phải đảm bảo rằng quốc gia của họ đã ký kết hiệp định song phương với quốc gia mà họ đang muốn thiết lập hoạt động, trong đó cho phép các “Ngân hàng ASEAN đủ tiêu chuẩn” tiếp cận sâu rộng hơn.

Nếu như hiệp định song phương như trên đã được ký kết, các ngân hàng sẽ được hưởng sự đối xử tương tự như các ngân hàng địa phương ở quốc gia mục tiêu. Điều này giúp một ngân hàng nhỏ từ một nước ASEAN có cơ hội mở rộng hoạt động đến một nước ASEAN khác. Điều này cũng sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ – những doanh nghiệp đang tìm cách khẳng định bản thân trong khu vực, vì các ngân hàng trong nước sẽ có nhiều khả năng cung cấp hỗ trợ tài chính hơn cho các doanh nghiệp nước mình nếu họ có thể hoạt động vượt ra ngoài biên giới.

Trong khi quá trình vẫn chưa tiến triển, và việc hội nhập ngân hàng khu vực ASEAN này sẽ có lộ trình thời gian muộn hơn so với các lĩnh vực khác trong hội nhập tài chính,và dự kiến sẽ bắt đầu diễn ra trong năm 2020. Ngoài ra, để việc hội nhập ngân hàng khu vực ASEAN đạt được thành công, đầu tiên mỗi nước ASEAN cần phải củng cố các ngân hàng của mình nhằm bảo vệ khu vực khỏi các rủi ro hệ thống có thể xảy ra.

  1. Khó khăn trong hội nhập tài chính ASEAN và những hàm ý cho Việt nam

Trong ngắn hạn và trung hạn, tốc độ hội nhập tài chính của ASEAN phần lớn sẽ vẫn rời rạc và ngày càng phụ thuộc vào cam kết của từng quốc gia thành viên ASEAN. Vì phần lớn các thủ tục hội nhập đơn giản đã được hoàn thành, tương lai của quá trình hội nhập có thể sẽ phụ thuộc vào khả năng nhượng bộ của từng quốc thành viên. Nguyên tắc đồng thuận của ASEAN khi ra quyết định có thể khiến khu vực này không thể áp dụng được các tiêu chuẩn hài hòa vì có thể quá trình ra quyết định sẽ vấp phải sự phản đối của một vài nước.

Đối với Việt nam, sự hình thành AEC có thể tạo ra cơ hội cho các ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia cổ phần để mở rộng mạng lưới hoạt động ở các nước ASEAN là đối tác thương mại chính của Việt Nam. Sẽ không dễ để gia nhập thị trường tài chính ASEAN- 5 trong đó các ngân hàng của nhóm nước này đã có thế mạnh về vốn, mạng lưới toàn cầu và các sản phẩm đa dạng. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam đang có hoạt động kinh doanh với Myanmar, có những khó khăn tồn tại trong các giao dịch thanh toán đã được chỉ ra vì các hệ thống thanh toán của các ngân hàng Myanmar vẫn còn yếu và chưa phát triển. Do đó, các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam cần phải có kế hoạch cụ thể và từng bước vững chắc cả về nguồn lực tài chính và năng lực quản lý để chuẩn bị cho việc mở rộng sang các nước có thị trường tài chính phát triển và cả những nước có thị trường tài chính kém phát triển hơn.

Để hội nhập tài chính nhiều hơn trong AEC, Việt Nam cần đẩy nhanh tái cơ cấu, nâng cao tính minh bạch và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tài chính nói riêng và khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế nói chung. Việc tái cơ cấu đã được thực hiện với rất nhiều khó khăn và thách thức. Do đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam  cần tiếp tục nghiên cứu và kịp thời ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hỗ trợ việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Để mang lại nhiều cơ hội hơn bằng cách tăng tỷ lệ sở hữu của đối tác chiến lược nước ngoài tại ngân hàng yếu kém trong nước đến 100% có thể là một lựa chọn khôn ngoan cho chúng ta trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng.

Cuối cùng, lý do cho sự chậm tiến trình hợp tác trong lĩnh vực tài chính giữa các nước ASEAN là do sự khác biệt về trình độ phát triển thị trường vốn, và những khoảng cách của tự do hóa tài khoản vốn và tự do hóa dịch vụ tài chính. Mặc dù lộ trình hội nhập tài chính trong AEC phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng của từng thành viên ASEAN, nhưng giống như Ngân hàng Trung ương Thái Lan, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải chủ động trong việc lên Kế hoạch tổng thể cho việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn và dịch vụ tài chính của mình hơn nữa.

Tài liệu tham khảo

  1. ASEAN Breafing
  2. Bộ ngoại giao (2015) Giới thiệu về Cộng đồng kinh tế ASEAN.
  3. https://caphesach.wordpress.com/2016/05/07/hoi-nhap-tai-chinh-trong-aec-kinh-nghiem-cua-thai-lan-va-ham-y-cho-viet-nam-phan-cuoi/
  4. Nguyễn Hồng Sơn & Nguyễn Anh Thu (đcb) – Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), bối cảnh và kinh nghiệm quốc tế – NXB ĐHQG HN 2015.

Trả lời