ThS. Phạm Huỳnh Đức
Viện Nghiên cứu Tài chính, Đầu tư và Hợp tác Thương mại Đông Nam Á
Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community, viết tắt: AEC) chính thức được thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, là bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập sâu rộng, toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á. Trong Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II của các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhấn mạnh:
Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập là để thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong “Tầm nhìn ASEAN 2020”, nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế-xã hội được giảm bớt vào năm 2020. Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của ASEAN (2004-2010) – Chương trình Hành động Vientian đã xác định rõ hơn mục đích của AEC là: tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua hội nhập nhanh hơn, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN.
Theo đó các nước trong khối ASEAN sẽ cho phép tự do luân chuyển lao động. Thị trường lao động của các thành viên ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ đứng trước các cơ hội và thách thức hội nhập, đồng thời cũng thể hiện những điểm mạnh và điểm yếu trong cạnh tranh khu vực và quốc tế.
- Giới thiệu chung về Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
- Khái quát
ASEAN là một khu vực kinh tế năng động có diện tích 4,46 triệu km² (3% tổng diện tích đất của Trái Đất), và có số dân khoảng 620 triệu người (8,8% dân số thế giới). Vùng biển của ASEAN là ba lần lớn hơn so với đất. Tính đến năm 2015, kết hợp GDP danh nghĩa tại ASEAN đã phát triển thành 1,85 nghìn tỷ USD, tổng giá trị thương mại: 2.042.788 triệu USD, tổng giá trị đầu tư: 74.081 triệu USD. Nếu ASEAN là một thực thể duy nhất, quốc gia đó sẽ xếp hạng trong các nền kinh tế lớn thứ 10 trên thế giới, sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đức, Nga, Pháp, Canada, Tây Ban Nha, Brazil, Anh, và Ý. Dự kiến đến năm 2030 thực thể này sẽ đứng thứ 4 trên thế giới.
- Quá trình hình thành
Tại Tầm nhìn ASEAN 2020, được thông qua 12/1997, Các nhà lãnh đạo ASEAN đã định hướng ASEAN sẽ hình thành một Cộng đồng, trong đó sẽ tạo ra một Khu vực Kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hoá, dịch vụ và đầu tư được lưu chuyển thông thoáng, vốn được lưu chuyển thông thoáng hơn, kinh tế phát triển đồng đều, nghèo đói và phân hoá kinh tế xã hội giảm bớt. Ý tưởng đó được khẳng định lại tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 9 (Bali, In-đô-nê-xia, tháng 10/2003), thể hiện trong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II). Theo đó, ASEAN nhất trí hướng đến mục tiêu hình thành một cộng đồng ASEAN liên kết, tự cường vào năm 2020 với 3 trụ cột chính là hợp tác chính trị – an ninh (ASC), hợp tác kinh tế (AEC) và hợp tác văn hoá xã hội (ASCC).
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 tại Cebu, Phi-líp-pin, tháng 1/2007 đã thông qua Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đồng thời quyết định rút ngắn thời hạn hình thành Cộng đồng, trong đó có Cộng đồng Kinh tế, từ 2020 xuống 2015.
- Các nội dung chính của Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Bốn đặc điểm đồng thời là yếu tố cấu thành của AEC:
– Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông qua: Tự do lưu chuyển hàng hoá; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu chuyển đầu tư; Tự do lưu chuyển vốn và Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề.
– Một Khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn khổ chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thuế quan và thương mại điện tử.
– Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN.
– Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu (WTO).
- Tiềm năng phát triển
Cộng đồng Kinh tế ASEAN bao gồm 10 quốc gia với dân số khoảng 620 triệu người, trong đó 300 triệu người tham gia lực lượng lao động. Ba quốc gia có số lao động chiếm tỷ trọng hơn 70% là In-đô-nê-xi-a (40%), Phi-líp-pin (16%) và Việt Nam (15%). Lực lượng lao động này khi được “giải phóng”, được tự do di chuyển trong thị trường chung sẽ là nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của các nước thành viên Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Từ năm 2015 có 8 ngành nghề lao động trong các nước ASEAN được tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, gồm: kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên ngành du lịch. Ngoài ra, nhân lực chất lượng cao (các chuyên gia, thợ lành nghề), trong đó có nhân lực được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, được di chuyển tự do hơn.
Hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN giúp thị trường lao động trong ASEAN sôi động hơn, thúc đẩy tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên. Cũng theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025. Tuy nhiên, do trình độ phát triển không đồng đều, nên hiện nay, lao động có tay nghề và kỹ năng cao trong khối ASEAN chủ yếu di chuyển vào thị trường Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái Lan. Còn lại, hầu hết các lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng. Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN do ILO thực hiện cho thấy, doanh nghiệp trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng trước sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015; gần 50% chủ sử dụng lao động trong khối ASEAN trong cuộc khảo sát cho biết, người lao động tốt nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần; cử nhân tốt nghiệp đại học có được những kỹ năng có ích nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp (cả về số lượng và chất lượng)…
- Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam
- Cơ hội
Gia tăng việc làm và nâng cao chất lượng việc làm.
Hội nhập sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư và công nghệ từ bên ngoài, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, mở rộng các kênh dịch chuyển lao động; đồng thời mở ra các cơ hội phát triển nghề nghiệp, kèm theo là việc thực hiện các quyền cơ bản của người lao động, bảo đảm phúc lợi sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng việc làm của Việt Nam.
Chuyển dịch tích cực cơ cấu việc làm.
Các dòng vốn đầu tư và công nghệ sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu từ những ngành kinh tế năng suất thấp sang những ngành có năng suất lao động cao hơn và tham gia vào chuỗi giá trị nhiều hơn.
Việt Nam có cơ hội thu hút lao động có trình độ cao từ các nước ASEAN… nhằm bù đắp sự thiếu hụt lao động chất lượng cao trong nước, thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng, thu hẹp khoảng cách phát triển.
Tạo điều kiện để đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo.
Để đảm bảo cho lao động Việt Nam hội nhập tốt, hệ thống giáo dục- đào tạo đứng trước áp lực và có điều kiện đổi mới căn bản và toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu lao động kỹ năng của thị trường lao động trong nước và quốc tế cả về số lượng, cơ cấu ngành nghề, cấp trình độ và chất lượng người học sau khi ra trường.
- Điểm mạnh
Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với lực lượng lao động (LLLĐ) trẻ và dồi dào. Đến năm 2015, LLLĐ cả nước đạt gần 54,79 triệu người, trong đó thanh niên (15-29 tuổi) chiếm gần 30% LLLĐ. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng 20,8%; khu vực dịch vụ là 32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây (theo số liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội), trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 30%. Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học – công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài. Trong giai đoạn 2005-2015, LLLĐ tăng với tốc độ bình quân 2,11%/năm, gấp 2 lần tốc độ tăng dân số, phản ánh “lợi ích cơ cấu dân số vàng”. Với cơ cấu này, chúng ta có lợi thế khá lớn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malayxia, Singapore.
Những năm vừa qua, Nhà nước đã chú trọng phát triển TTLĐ gắn với giải quyết các vấn đề xã hội và hỗ trợ các nhóm lao động yếu thế; đồng thời ban hành các chính sách hỗ trợ việc làm, tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp… góp phần giảm nghèo, đào tạo, tạo việc làm cho những đối tượng lao động yếu thế.
- Điểm yếu
Chất lượng nguồn nhân lực thấp, cơ cấu chưa hợp lý
Do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, do vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp. Năm 2015, tỷ lệ lao động làm công ăn lương mới đạt gần 40%, còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực (năm 2013: Campuchia là 40,6%, Indonexia là 46,5%, Philippines 58,2%, Thái Lan 41,4%, Malayxia 75%, Singapore 85,1%, theo ADB và ILO, 2014). Việt Nam vẫn là nước có cơ cấu lao động lạc hậu trong ASEAN với tỷ lệ lao động nông nghiệp cao thứ 4 (sau Lào, Campuchia và Myanmar) – khoảng 45% LLLĐ Việt Nam vẫn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp với năng suất và thu nhập thấp và gần 2/3 LLLĐ làm các công việc dễ bị tổn thương.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm 2012), lao động phổ thông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, lao động qua đào tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy và thường xuyên, phi chính quy, dạy nghề dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp) chiếm khoảng 34% tổng số lao động trong cả nước. Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực.
Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2015-2016 do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố, điểm năng lực cạnh tranh (GCI) của Việt Nam là 4,3/7, đứng thứ 56/140 quốc gia được khảo sát về 12 tiêu chí cạnh tranh bao gồm: thể chế pháp luật, cơ sở hạ tầng, y tế và giáo dục, quy mô thị trường, môi trường kinh tế vĩ mô, mức độ phát triển của thị trường tài chính, hiệu quả thị trường lao động… Việt Nam chỉ được 3,8/7 điểm về đào tạo và giáo dục bậc cao (higher education and training), đứng thứ 95/140; được 4,4/7 điểm về hiệu quả của thị trường lao động, xếp thứ 52/140; được 3,3/7 điểm về mức độ sẵn sàng về công nghệ, đứng thứ 92/140.
Quan hệ lao động tại doanh nghiệp chưa hài hòa, ổn định
Mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động chưa thực sự hài hòa, ổn định, các cuộc đối thoại và thương lượng tập thể, ký kết thỏa ước lao động tập thể… chưa được thực hiện hoặc chỉ là hình thức. Tranh chấp lao động và đình công còn nhiều và phức tạp, vai trò của tổ chức công đoàn chưa được phát huy tốt, trong khi năng lực hòa giải và trọng tài còn yếu kém.
Cơ sở hạ tầng của TTLĐ còn thiếu và yếu.
Hệ thống dự báo và thông tin TTLĐ, hệ thống dịch vụ việc làm và giáo dục nghề nghiệp (GDNN) chưa đáp ứng nhu cầu của TTLĐ. Công tác tư vấn, hướng nghiệp chưa hiệu quả, dẫn đến việc phân luồng học sinh sau THCS và THPT vào học nghề hạn chế.
Mức độ sẵn sàng hội nhập còn hạn chế
Mức độ sẵn sàng hội nhập và năng lực quản trị TTLĐ thích ứng với điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế còn hạn chế về thể chế, thủ tục hành chính, đội ngũ cán bộ và công tác thanh tra. 76% doanh nghiệp không biết hoặc không hiểu gì về AEC, 94% doanh nghiệp không biết về nội dung đàm phán trong AEC, 63% doanh nghiệp không hiểu gì về thách thức và cơ hội khi tham gia AEC. 28% số sinh viên năm cuối được hỏi không biết đến AEC, trong số sinh viên biết AEC có tới 81% cho rằng thách thức lớn nhất thuộc về ngoại ngữ (phỏng vấn 240 sinh viên năm cuối tại 5 trường ĐH ở Tp.HCM, đầu tháng 2/2016).
III. Một số giải pháp
Để góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nhân lực Việt Nam, trong bối cảnh hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN cần phải đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống , lao động việc làm, giáo dục – đào tạo nói chung và GDNN nói riêng. Trong khuôn khổ 1 chuyên đề nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể sau:
- Đối với công tác giáo dục nghề nghiệp
– Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của GDNN trong chiến lược phát triển nhân lực của đất nước thời kỳ 2011 – 2020. Ưu tiên đầu tư GDNN trong từng chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương, vùng, ngành. Hình thành thang giá trị nghề nghiệp trong xã hội.
– Hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách về GDNN
– Tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng nghề nghiệp, bao gồm phát triển đội ngũ nhà giáo chuẩn hóa về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề, nghiệp vụ sư phạm theo các cấp độ (quốc gia, khu vực và quốc tế). Phát triển chương trình đào tạo phù hợp với công nghệ sản xuất hiện đại theo hướng mở, linh hoạt, thích hợp với các cấp và trình độ đào tạo nghề; áp dụng một số chương trình đào tạo của các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Thực hiện kiểm định cơ sở GDNN và chương trình; xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia; tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động; ban hành các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề cho từng nghề ở từng cấp độ.
– Đổi mới hoạt động đào tạo; chuyển chương trình dạy nghề từ chủ yếu trang bị kiến thức sang mục tiêu phát triển kỹ năng và năng lực hành nghề cho người học; đa dạng hóa nội dung dạy nghề theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học.
– Gắn kết giữa GDNN với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ giữa GDNN với trị trường lao động, hướng vào việc đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Hình thành các đơn vị quan hệ trường – ngành trong các cơ sở
– Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục nghề nghiệp, nhất là với những nước thành công trong phát triển GDNN ở khu vực ASEAN và trên thế giới. Tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA cho giáo dục nghề nghiệp.
- Đối với lĩnh vực lao động việc làm
– Hoàn thiện thể chế về lao động- xã hội theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Áp dụng các phương pháp tiếp cận, tiêu chí đánh giá về lao động- xã hội theo thông lệ quốc tế và khu vực. Chủ động dự báo, xử lý kịp thời các vấn đề lao động- xã hội phát sinh trong quá trình phát triển, thực thi các cam kết quốc tế.
– Hoàn thiện và phát triển TTLĐ trong nước. Kết nối cung – cầu lao động hiệu quả. Tổ chức tốt hệ thống thông tin TTLĐ, bao gồm TTLĐ trong nước và TTLĐ ngoài nước. Đặc biệt, tăng cường và nâng cao chất lượng dự báo nhu cầu lao động. Đổi mới và đẩy mạnh công tác tư vấn hướng nghiệp. Kiện toàn và nâng cao năng lực của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm nhằm tăng cường sự liên kết, chia sẻ thông tin, hỗ trợ nhau trong công tác cung ứng và tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp.
– Chú trọng theo đuổi các mục tiêu của việc làm bền vững. Chú trọng vào cả 4 trụ cột của việc làm bền vững về bảo đảm quyền và tiếng nói của người lao động, cơ hội việc làm, an sinh xã hội (ASXH) và thực hiện cơ chế đối thoại xã hội.
– Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh. Tôn trọng và bảo vệ quyền của người lao động trong việc thành lập và gia nhập tổ chức của người lao động tại cơ sở doanh nghiệp.
– Thúc đẩy di cư lao động an toàn và hiệu quả. Hỗ trợ cho lao động di chuyển (dỡ bỏ các rào cản về hành chính, tạo liên thông các dịch vụ xã hội cơ bản, liên thông bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế….).
– Tăng cường thực hiện các chính sách ASXH. Mở rộng đối tượng hưởng các chính sách ASXH, xây dựng sàn ASXH và các lưới bảo vệ người lao động khi bị rơi vào yếu thế, dễ bị tổn thương. Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách ASXH phù hợp với thông lệ quốc tế trong bối cảnh già hoá dân số.
Tài liệu tham khảo
- Ban thư ký ASEAN Quốc gia Việt Nam, Vụ ASEAN – Bộ Ngoại giao (2015). Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). http://asean.mofa.gov.vn
- Đào Ngọc Dung (2016), Đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước. http://www.molisa.gov.vn
- Trần Khánh Đức (chủ biên, 2014) “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI”, NXB Giáo dục.
- Nguyễn Bá Ngọc, Trịnh Thu Nga, Đặng Đỗ Quyên (2017). Thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Viện Nghiên cứu GDNN (phiên bản điện tử). http://www.giaoducquocte.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/cong-trinh-nghien-cuu-khoa-hoc/thi-truong-lao-dong-viet-nam-trong-boi-canh-hoi-nhap-khu-vuc-va-quoc-te/
- Mạc Văn Tiến (chủ nhiệm, 2012) đề tài cấp bộ “Đổi mới căn bản và toàn diện GDNN trong giai đoạn mới”.
- Mạc Văn Tiến (2014). Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN. Tạp chí Cộng sản (phiên bản điện tử),
- Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (2016), Báo cáo Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2015.